) Vài hàng đại cương về nguồn gốc âm nhạc cổ truyền Việt Nam
Theo truyền thuyết, Việt Nam có một lịch sử trên 4000 năm, bắt đầu từ thời đại các vị vua Hùng, dựng nước Văn Lang, đã nói lên một sự hình thành ổn định của nền văn minh cổ đại. Người dân Văn Lang bấy giờ đã biết và sáng tạo nghệ thuật qua những di tích hoa văn, những hình khắc trên các vật khảo cổ. Dấu vét còn hiện hữu đến ngày nay có lẽ dựa trên nhạc cụ - trống đồng - đã nói lên sư hình thành một nền văn hóa, văn minh rực rỡ. Người Việt Nam phải chăng khi đó đã có một hệ thống âm nhạc song song với sự tạo lập ra nước Văn Lang.
Thử nhìn lại các hiện vật trong thời đại Ðồng thau Ðông Sơn từ 3500-2000 năm trước đây. Khi khai quật được những vật liệu này, nhiều người cho rằng đây chỉ là những công cụ để chứa đựng, hoặc tìm thấy đã chứa đựng những hài cốt lại cho rằng là vật để chôn thi hài. Sau này qua những nét khắc trang trí trên bề mặt, điều này đã được xác định đây là một loại trống bằng đồng và chứng tỏ một ý nghĩa to lớn về âm nhạc đã có từ thời các vi vua Hùng. Thật ra, với các dân tộc trên thế giới, trống là loại nhạc cụ có từ thời nguyên thủy cuả loài người. Phát xuất từ các dân tộc nông nhiệp và được tượng trưng như sự hiện diện của Thần Sấm, vị thần điều khiển mưa; mưa rất quan trọng cho sự trồng trọt. Theo Cao huy Ðỉnh, chữ làng Phù Ðổng, đọc theo lối phát âm tiếng Việt cồ là làng Pơ lóổng, tức là làng Trống.Một số dân tộc Tây Nguyên cho rằng Thần Trống (Bok sơgơ) là tổ tiên nguyên thủy của con người. Ngày nay, trong ngày mở đầu thời vụ làm nương rẫy, người dân còn có điệu múa Trống (Soang Sơgơr) với khái niệm gọi thần Sấm về làm mưa gieo lúa.
Hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ cho thấy, thời ky của trống đồng, tổ tiên đã có một số nhạc cụ như trống đồng, trống bịt da và khèn. Về mặt âm nhạc, trống đồng được sử dụng từ xa xưa, được chế tạo tại chỗ và được sử dụng trong âm nhạc dân tôc từ hồi lập quốc đến nay.
Về khèn, Lục Tuân, người đời Ðường ( thế kỷ thứ VII), tác gỉa sách "Lĩnh biểu lục dị " đã viết: " Người Giao Chỉ lấy quả bầu khô, cắm mười ba cái ống có lưỡi gà vào mà thổi, tiếng nghe trong trẻo, hợp với luật lã, cái ấy gọi là cái Sinh.Khèn vốn dĩ là nhạc cụ hơi, khi chơi phải kê miệng mà thổi. Người Hán phiên âm khèn là Sheng, từ đó người Việt Nam dịch lại là Sinh. Theo các tài liệu về âm nhạc dân gian. Khèn là loại nhạc cụ với giai đoạn phát triển cao nhất trong nền âm nhạc có hệ thống và nguyên tắc chế tạo.
Trước khèn, còn các nhạc cụ khác đơn giản hơn, gồm một ống hay hai ống, gọi là Sáo, có loại gắn lưỡi gà, như sáo Hmông, có loại gồm hai ống gắn lưỡi gà được sử dụng trong âm nhạc Tây Nguyên. Từ hình ảnh khèn khắc trên trống đồng, có thể nói sự phát triển của nền âm nhạc cổ xưa Việt Nam, đã có hệ thống hóa. Như vậy trên hoa văn của trống đồng Ngọc Lũ, co thể nói tóm tắt âm nhạc thời bấy giờ:
- Cãc nhạc cụ: Trống đồng, chiêng cồng, chuông đồng, trống mặt da, khèn, các loại sáo co lưỡi gà một ống, hai ống.
- Ngoài âm nhạc đơn âm, đã có thể hiện âm giai hợp âm.
Trong những năm 1978-1982, các nhà khảo cổ và sưu tầm đã phát hiện ra nhửng thanh đá khi gõ phát ra những âm thanh. Các thanh đá có âm vực cao thấp cho ta nghĩ đến một loại nhạc cụ đã được sử dụng trong dàn nhạc và họ cho rằng đây là một loại đàn đá. Trên mỗi thanh co một điểm chính khi gõ vào nghe chuẩn hơn chỗ khác. Hiện một số người Mơnông ở Tây Nguyên biết sử dụng đàn đá và vẽ ra cách đánh; đàn đá cũng có cách cấu tạo như các đàn của các dân tộc Tây Nguyên là đàn T'rưng, đàn Lên nẹt Khơmer Nam Bộ. Theo sự nghiên cứu của Georges Condomina, người ta cho rằng đàn đá rát giống các hiện vật thuộc thời kỳ văn hóa Bắc Sơn ( cách chúng ta khoảng 5000-6000 năm).
Tuy ngày nay, chúng ta không biết tổ tiên đã diễn tả âm nhạc ra sao, nhưng căn cứ trên diễn trình âm nhạc, trước khi sáng tạo ra một nhạc cụ, con người đã biết trình bày diễn tả âm thanh bằng chính nhạc cụ tự nhiên mà thiên nhiên ban cho là giọng hát. Với giọng hát, để nhịp theo, con người đã lấy nhánh cây gõ và cuối cùng tạo ra nhịp điệu ưa thích. Những nhạc cụ như trống đồng, đàn đá, chiên, gồng, khèn, sáo phải đợi khi đã co một hệ thống âm nhạc thành hình mới đủ tạo nên phần đệm cho giọng hát. Người ta chưa thấy dân tộc nào có nhạc cụ mà không có phần hát; trái lại, nhiều dân tộc hát nhiều, hát hay nhưng nhạc cụ lại rấi ít.
Trước sự khám phá các nhạc cụ cổ xưa, co thể nói nền âm nhạc Việt Nam đã được hình thành rất sớm và là nền tảng của nhạc dân tộc sau này, tạo nên một nét đặc thù hoàn toàn khác biệt với âm nhạc các nước Ðông Nam Á.